Lâu nay, nhiều người quen dùng từ “Mạnh Thường Quân” để chỉ những nhà tài trợ hảo tâm, từ thiện có tấm lòng phóng khoáng “phóng tài vật thu nhân tâm”. Hãy cùng quay ngược kim đồng hồ về lại 2500 năm trước, khi Trung Quốc đang ở thời kỳ “Chiến Quốc” để tìm hiểu nguồn gốc câu chuyện và điển tích đằng sau tên gọi này.
Thời đó là lúc thiên hạ rối ren, loạn lạc, mỗi chư hầu nổi dậy cát cứ một nơi, có 7 nước tranh hùng: Tần, Sở, Tề, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ, gọi là “Thất hùng”.
Dù chiến loạn liên miên nhưng đây lại là một trong những thời kỳ phát triển rất rực rỡ của văn minh, học thuật, kỹ thuật. Đồng thời Chiến Quốc cũng là thời đại sản sinh ra rất nhiều bậc anh hùng, văn võ thao lược. Người ta thường nhắc đến “Tứ đại công tử” thời Chiến Quốc bao gồm: Mạnh Thường Quân nước Tề, Bình Nguyên Quân nước Triệu, Tín Lăng Quân nước Nguỵ và Xuân Thân Quân nước Sở. Trong số đó, Mạnh Thường Quân chính là người hoạt động sớm nhất.
Mạnh Thường Quân chiêu hiền đãi sĩ
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn, con trai của Tướng quốc Điền Anh, người nước Tề thời Chiến Quốc. Sau khi thân phụ qua đời, ông cũng được phong làm Tướng quốc, ăn lộc ở đất Tiết.
Vốn là người nghĩa hiệp, thích kết giao, Mạnh Thường Quân có lúc nuôi tới 3000 người trong nhà. Phàm là những người tìm đến Mạnh Thường Quân xin tá túc đều được ông cung phụng đầy đủ, ít nhất cũng có cơm ăn, áo mặc. Những người này được gọi với một cái tên là “thực khách”.
Danh tiếng của Mạnh Thường Quân nhờ thế vang khắp thiên hạ. Môn khách kéo đến với ông mỗi lúc một nhiều. Do đó, ở nước Tề, ông trở thành nhân vật có sức ảnh hưởng lớn, thậm chí còn vượt qua cả vua Tề. Các nước khác thấy Tề có Mạnh Thường Quân nuôi đến hàng nghìn nhân tài trong nhà nên cũng không dám manh động cử binh tiến đánh.
Vị khách Phùng Hoan và món quà mang về cho Mạnh Thường Quân
Trong số 3000 thực khách của Mạnh Thường Quân có một người tên là Phùng Hoan. Người này bình thường không có tài gì nổi bật nhưng vốn tính trung hậu lại đáng tin. Thực khách của Mạnh Thường Quân ngày càng nhiều, có hơn 3000 người danh tiếng. Ông chia môn khách làm ba bậc; Loại thứ nhất ăn cơm có thịt cá, đi đâu cũng có xe ngựa, loại thứ hai ăn cơm có thịt cá, còn loại thứ ba chỉ có cơm và rau dưa mà thôi.
Một hôm, có người tên là Phùng Hoan yết kiến ông. Mạnh Thường quân hỏi: “Khách có điểm gì hay?”. Phùng Hoan bảo: “Tôi không có gì hay cả”. Lại hỏi: “Khách có tài gì?”. Phùng Hoan lại trả lời không. Mạnh Thường quân cho vào hạng khách thấp nhất.
Phùng Hoan từ khi vào nhà ông, suốt ngày cầm kiếm hát: “Kiếm ơi, về thôi, ăn cơm mà không có cá”. Có người nói với Mạnh Thường quân, ông bèn cho Phùng Hoan vào hàng khách ăn cơm có cá. Nhưng Phùng Hoan vẫn chưa hài lòng, hát rằng: “Kiếm à, về thôi, đi ra ngoài mà không có xe!”. Mạnh Thường quân bèn cho Hoan vào hàng khách được ngồi xe. Phùng Hoan lại hát: “Kiếm ơi! về đi thôi! chẳng có gì gửi về nhà giúp đỡ!”. Mạnh Thường quân hỏi nhà Phùng Hoan có thân nhân không, Phùng Hoan nói có mẹ già, Mạnh Thường quân bèn chu cấp cho mẹ Phùng Hoan.
Nguyên trong nhà Mạnh Thường Quân nuôi đến hàng ngàn thực khách, chi tiêu, ăn uống cũng là một vấn đề. Mạnh Thường Quân đành phải cho dân ở ấp Tiết (đất phong của mình) vay nợ lãi để lấy thêm thu nhập. Một hôm, quản gia dâng sổ sách lên báo với Mạnh Thường Quân rằng số tiền trong nhà chỉ còn đủ chi dùng trong 1 tháng.
Mạnh Thường Quân tìm trong môn khách đi thu nợ cho mình ở ấp Tiết, chỉ có Phùng Hoan xung phong nhận việc. Trước khi đi Phùng Hoan hỏi: “Lần này thu nợ về xong, chủ nhân có cần mua thêm gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời vu vơ: “Ngươi thấy trong nhà còn thiếu thứ gì thì cứ mang về!”.
Phùng Hoan đến nơi, thấy rằng những người mắc nợ phần nhiều là dân nghèo bèn ra lệnh đốt sạch sổ sách ghi nợ. Ông cho gọi dân ấp Tiết đến và bố cáo rằng: “Mạnh Thường Quân cho vay nợ không phải vì lợi lộc mà muốn để mọi người mưu sinh, lập nghiệp. Mạnh Thường Quân có mấy ngàn khách ăn trong nhà, chi dùng không đủ nên bất đắc dĩ mới phải đòi lãi để nuôi khách. Nay người có tiền lập văn tự hứa trả còn người nghèo khổ không thể trả thì miễn cho. Mạnh Thường Quân làm ơn cho dân ấp Tiết như thế quả là hậu!”. Dân chúng nghe xong đều sụp xuống lạy tạ, tôn Mạnh Thường Quân như cha mẹ.
Phùng Hoan trở về yết kiến Mạnh Thường Quân. Nghe chuyện ông tự tiện đốt văn tự ghi nợ, Mạnh Thường Quân giận lắm, nói: “Nay mấy nghìn thực khách ăn không đủ cung ứng. Ông lại đem hết giấy tờ ghi nợ đốt bỏ đi. Vậy ý là làm sao?”.
Phùng Hoan bình thản nói: “Trước khi đi, chủ nhân có dặn nhà thiếu thứ gì thì mua về. Nay tôi thấy trong nhà tiền bạc, mỹ nữ đều có đủ cả, chỉ thiếu nhân nghĩa mà thôi. Chuyến này tôi đi là dùng số tiền nợ kia mua về nhân nghĩa cho chủ nhân vậy!”. Mạnh Thường Quân nín lặng, đành bỏ qua nhưng trong lòng vẫn còn cảm thấy không thoải mái lắm.
Về sau, có người gièm pha Mạnh Thường Quân với vua Tề. Vua Tề bèn cách chức ông, thu ấn tướng quốc, chỉ cho về ấp Tiết ăn lộc. Lúc này, môn khách của Mạnh Thường Quân cũng tản mát đi cả. Duy chỉ có Phùng Hoan vẫn ở lại bên cạnh, cầm cương đánh xe cho Mạnh Thường Quân.
Khi vừa trở về ấp Tiết, dân chúng không quản ngại, lặn lội trăm dặm đón Mạnh Thường Quân, lại còn dâng cơm rượu, chúc tụng, nhắc đến chuyện nhân nghĩa xưa kia. Mạnh Thường Quân khi ấy mới hiểu được điều mà Phùng Hoan làm ngày trước, quay lại nói: “Ta thực quá hồ đồ, khi xưa còn trách móc ông. Giờ mới hiểu được nhân nghĩa mà ông mua cho ta nghĩa là thế nào”.
Nhân nghĩa là gốc của đạo làm người
Nhân nghĩa luôn là cái gốc của đạo xử thế, đạo làm người. Đó cũng là giá trị mà Nho gia gìn giữ hàng nghìn năm qua. Mạnh Thường Quân nghĩa hiệp, sẵn sàng cưu mang hàng nghìn khách trong nhà, không phân biệt sang hèn. Rất nhiều môn khách có thân phận tưởng thấp kém, tầm thường. Nhưng đôi khi chính họ đã trở thành “cứu tinh” cho Mạnh Thường Quân như câu chuyện đã kể ở trên.
Nhân nghĩa đôi khi không thể tính đếm được bằng con số, không thể đo lường bằng bạc tiền. Phùng Hoan đã thức tỉnh Mạnh Thường Quân đạo nghĩa làm người. Phùng Hoan đã đổi một số tiền nợ có hạn để thu về một giá trị vô hạn là nhân tâm. Mạnh Thường Quân có thể mất đi công danh, chức tước và bổng lộc. Nhưng cái được của ông là lòng người. Đó là giá trị mà suốt hàng nghìn năm qua, biết bao anh hùng luôn mong muốn có được. Bởi lẽ, đắc được nhân tâm thì sẽ có cả thiên hạ.
Ở một ý nghĩa khác, câu chuyện của Mạnh Thường Quân cũng cho thấy bài học về ứng xử. Trong cuộc sống, không phải lúc nào bạn cũng thuận buồm, xuôi gió. Dù là ở trong hoàn cảnh nào, giàu sang hay nghèo khổ, phú quý hay tủi nhục, hãy luôn giữ vững thiện niệm và lòng nhân nghĩa. Khi sa cơ lỡ vận, bạn có thể mất tất cả nhưng phúc đức, nhân nghĩa lưu lại và trở thành tài sản quý nâng đỡ bạn đi tiếp chặng đường dài.
Nguồn sưu tầm.
Đọc thêm: